Phân loại Họ_Mỏ_rộng

Sapayoa mỏ rộng ở Nam Mỹ nguyên thủy được đặt trong họ Pipridae - một họ chim thuộc nhánh Tyrannida trong Tyrannides (chim cận biết hót Tân thế giới) sinh sống tại vùng nhiệt đới châu Mỹ, nhưng một số nghiên cứu gần đây cho thấy vị trí đúng của nó là thuộc về nhánh Eurylaimides (chim cận biết hót Cựu thế giới)[2][3][4]. Có những ý kiến đồng ý gán loài này vào họ Mỏ rộng[5], nhưng cũng có ý kiến đồng ý việc xác lập một họ độc lập cho nó[6]. Tuy nhiên, tới năm 2013 thì IOC vẫn gán nó trong họ Eurylaimidae[1]

Bốn loài đuôi cụt Madagascar (asity) đôi khi cũng được gộp trong họ này[1][7], mặc dù nói chung người ta hay công nhận nó là một họ độc lập với danh pháp Philepittidae Sharpe, 1870 - một họ đặc hữu Madagascar, chẳng hạn trong quyển 8 của Handbook of the Birds of the World (HBW, ISBN 8487334504).

Trước đây, người ta hay chia họ Mỏ rộng (không bao gồm 4 loài đuôi cụt Madagascar) thành 5 phân họ:

Một số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy họ Eurylaimidae như định nghĩa trên đây là cận ngành trong mối tương quan với họ Philepittidae. Do vậy, nếu họ Philepittidae được công nhận thì họ Eurylaimidae nên được chia tách ra để nó có thể có được tính đơn ngành[2][3].

Bên cạnh đó, quan hệ họ hàng chính xác của Sapyoa với các loài mỏ rộng Cựu thế giới vẫn chưa được giải quyết dứt khoát. Sử dụng các gen khác nhau, Irestedt và ctv. (2006b)[2] thấy Sapayoa aenigma có quan hệ chị-em với "Calyptomenidae" (bao gồm 2 phân họ Smithornithinae và trên đây Calyptomeninae), trong khi Moyle và ctv (2006a)[3] lại thấy nó là chị-em với Philepittidae + Eurylaimidae nghĩa hẹp (bao gồm 2 phân họ Pseudocalyptomeninae và Eurylaiminae trên đây).

Ngoài ra, sự chia tách của nó với các loài mỏ rộng Cựu thế giới là khá cổ xưa, theo ước tính của Moyle và ctv (2006a) là khoảng 52 triệu năm trước[3]. Tính cổ xưa của sự chia tách, các khác biệt hình thái (như minh quản) cùng sự không chắc chắn về các họ hàng gần của nó có thể là biện minh tốt cho địa vị một họ tách rời của Sapayoa aenigma, như đề xuất năm 2011 của SACC[6].

Nếu Sapayoidae cũng được công nhận thì khi đó Eurylaimidae phải được chia đôi, với Smithornithinae + Calyptomeninae gộp lại thành họ Calyptomenidae Bonaparte, 1850 - như đề xuất của Irestedt và ctv. (2006b)[2], còn Eurylaimidae khi đó chỉ còn lại Pseudocalyptomeninae + Eurylaiminae.